1/ Trường hợp Người sử dụng lao động (NSDLĐ) có các khoản chi tiền lương, tiền công cho người lao động (NLĐ) làm thêm giờ ngoài thời giờ làm việc bình thường theo Điều 104 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13 thì NSDLĐ và NLĐ làm thêm giờ phải đáp ứng đúng đủ các điều kiện quy định tại Điều 106 Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13. Tiền lương làm thêm giờ NSDLĐ trả cho NLĐ phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13, thì thu nhập từ tiền lương, tiền công của người lao động làm thêm giờ nêu trên thuộc đối tượng miễn thuế TNCN theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC.
Trường hợp NSDLĐ và NLĐ có thỏa thuận làm thêm giờ vượt quá mức 200 giờ/năm thì trường hợp này phải được Chính phủ cho phép mới được thực hiện và số giờ vượt trên 200 giờ/ năm nhưng không quá 300 giờ/ năm theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13 thì khi đó thu nhập từ tiền lương, tiền công làm thêm giờ nêu trên của NLĐ theo đúng quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13 thuộc đối tượng miễn thuế TNCN theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC.
Trường hợp không được Chính phủ cho phép, nhưng NSDLĐ và NLĐ vẫn thực hiện làm thêm giờ vượt mức 200 giờ/năm là vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13 thì khi đó thu nhập từ tiền lương, tiền công làm thêm giờ nêu trên của NLĐ không thuộc đối tượng miễn thuế TNCN theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC.
2/ Trường hợp NLĐ có ký hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 23 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13 thì thời gian làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 1 ngày và 48 giờ trong 01 tuần theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13.
Như vậy, nếu NLĐ làm việc cho 2 Công ty khác nhau thì tổng số giờ làm việc cho các Công ty cộng lại cũng phải đáp ứng theo đúng quy định tại Điều 23, Điều 104 Bộ luật Lao Động số 10/2012/QH13.